Tốc độ tăng lãi suất của Fed thường không diễn ra theo cách mà các nhà đầu tư hoặc ngân hàng trung ương mong đợi, và câu hỏi đặt ra là nhà đầu tư không biết nên tiếp tục mua vào cổ phiếu, bán ra hay chờ đợi.

Thời điểm thị trường luôn là một câu hỏi nhức nhối đối với các nhà đầu tư, nhất là từ khi cổ phiếu bắt đầu giảm khoảng 25% vào tháng 1/2022 đến nay. Thực tế, thời điểm thị trường đúng hay sai còn có khả năng phụ thuộc vào việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thực hiện theo kế hoạch tăng lãi suất chuẩn lên 4,5% hoặc cao hơn hay không (theo dự đoán các chỉ số dựa trên thị trường và loạt dự đoán mới nhất của Fed).

Hầu hết các thị trường chứng khoán toàn cầu đều đang canh cánh về khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng mới nổi do lãi suất cao hơn và đồng USD mạnh lên, tăng giá ở mức cao nhất trong 20 năm qua. Một mối lo ngại khác là thị trường nhà ở sụt giảm do lãi suất thế chấp tăng hoặc sự sụp đổ của một tổ chức tài chính xảy ra sau khi thị trường trái phiếu tiếp tục suy yếu.

Những lo ngại rằng Fed có thể khiến nền kinh tế toàn cầu hoặc hệ thống tài chính bị “phá vỡ” đã khiến một số người đặt câu hỏi rằng – liệu Fed có thể thành công trong việc đánh bại lạm phát bằng cách tăng lãi suất với tốc độ mạnh mẽ nhất trong nhiều thập kỷ, mà không gây thiệt hại cho tài sản thế chấp hay không?

Chính sách tăng lãi suất của Fed ảnh hưởng nhiều đến thị trường và các nhà đầu tư. (Ảnh: Getty Image)

Những nỗ lực của Fed ảnh hưởng đến thị trường hàng ngày, nhà đầu tư lao đao

Ông Bill Sterling, chiến lược gia toàn cầu tại GW&K Investment Management, cho biết: “Mức lãi suất cao nhất quan trọng đối với cổ phiếu”.  Nhìn lại cách Fed đã điều hành chính sách tiền tệ so với các dự báo của chính họ cho thấy nhà đầu tư có lý do chính đáng để hoài nghi về triển vọng xa vời rằng một ngày gần đây, Fed sẽ quay trở lại chính sách nới lỏng tiền tệ.

Điều quan trọng cần nhớ là chứng khoán thường phản ứng tích cực khi Fed quay trở lại cắt giảm lãi suất. Kể từ tháng 8/1984, chỉ số S&P 500 đã tăng trung bình hơn 17% trong 12 tháng sau khi đạt mức cao nhất trong phạm vi lãi suất cho vay, theo dữ liệu của Sterling tại GW&K và Fed. Biểu đồ cũng cho thấy Nasdaq Composite và Dow Jones Industrial Average tăng mạnh trong năm sau khi Fed đưa lãi suất lên mức cao nhất trong các chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ trước đó trong khoảng 40 năm qua.

Một yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa thị trường hiện tại của các nhà đầu tư với tình trạng lạm phát dai dẳng của những năm 1980, đó là mức độ không chắc chắn về địa chính trị và kinh tế vĩ mô ngày càng gia tăng. Như Tavi Costa, giám đốc danh mục đầu tư tại Crescat Capital cho biết, nền kinh tế Mỹ đang suy yếu, cộng với lo ngại về một cuộc khủng hoảng nổ ra ở đâu đó trên thị trường toàn cầu đang làm phức tạp triển vọng chính sách tiền tệ.

Tuy nhiên, khi các nhà đầu tư theo dõi thị trường và dữ liệu kinh tế, Sterling nói rằng các thước đo “lạc hậu” như chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ và chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân, gần như không hữu ích. Trong khi đó, các thước đo “hướng tới tương lai” như chênh lệch hòa vốn được tạo ra bởi chứng khoán được Kho bạc bảo vệ lạm phát, hoặc dữ liệu khảo sát như chỉ báo kỳ vọng lạm phát của Đại học Michigan còn chính xác hơn.

Ông Sterling nói: “Thị trường đang bị kẹt giữa những dấu hiệu đáng mừng và tương lai ảm đạm khi lạm phát có thể xuất hiện trong năm tới”.

Rất khó để phân tích và dự đoán chính sách của Fed

Chủ tịch Fed Minneapolis Neel Kashkari và Thống đốc Fed Christopher Waller đã nói rằng các nhà hoạch định chính sách không có ý định từ bỏ kế hoạch tăng lãi suất của họ. Tuy nhiên, một số nhà đầu tư Phố Wall đang ngày càng giảm sự quan tâm của họ với những tuyên bố của quan chức Fed. Thay vào đó, nhà đầu tư tập trung hơn đến các chỉ số dựa trên thị trường như chênh lệch trái phiếu kho bạc, động thái tương đối trong lợi suất trái phiếu chính phủ và chênh lệch nợ tín dụng.

Ông Costa tại Crescat Capital cho biết mình nhận thấy sự “mất kết nối” ngày càng tăng giữa tình trạng thị trường và lời hùng biện của Fed. Ông dự đoán một sự kiện cuối cùng sẽ buộc Fed và các ngân hàng trung ương toàn cầu khác phải lùi lại chương trình nghị sự thắt chặt chính sách của họ. Ví dụ, ngân hàng Anh đã làm một thời gian ngắn vào tháng trước khi quyết định bơm hàng tỷ USD thanh khoản vào thị trường hậu bị – mặc dù ngân hàng TW Vương quốc Anh cũng đang chuẩn bị tiếp tục tăng lãi suất để chống lại lạm phát

Tuy nhiên, trước khi điều đó xảy ra, Costa hy vọng giao dịch thu nhập cố định sẽ quay về tình trạng như vào mùa xuân năm 2020, khi Fed buộc phải can thiệp để ngăn chặn sự sụp đổ của thị trường trái phiếu vì Covid-19.

“Chỉ cần nhìn vào sự khác biệt giữa lợi suất Kho bạc so với lợi suất trái phiếu rác. Chúng tôi vẫn chưa thấy mức tăng đột biến đó do rủi ro vỡ nợ, đây là dấu hiệu của một thị trường hoàn toàn không hoạt động”, Costa nói. Sterling khẳng định: “Đừng nghe lời Cục Dự trữ Liên bang khi cố gắng dự đoán định hướng chính sách của Fed trong năm tới.